Mô hình nuôi lươn thương phẩm không bùn với mật độ cao đạt tiêu chuẩn VietGap với nhiều ưu điểm sẽ giúp khắc phục những khó khăn hạn chế của các mô hình nuôi lươn thương truyền thống, mang lại hiệu quả kinh tế và sản phẩm an toàn, thân thiện môi trường.
Tình hình sản xuất và tiêu thụ
Lươn thuộc bộ Synbranchiformes, sống phổ biến ở nhiều nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Campuchia, Indonesia, Việt Nam... Lươn đồng là loài có giá trị dinh dưỡng cao, thịt thơm ngon, rất được ưa chuộng trên thị trường trong nước và xuất khẩu. Ngoài ra thịt lươn còn chứa nhiều DHA, EPA, vitamin B1, B2 có tác dụng bồi bổ sức khỏe, tăng trí thông minh, hạn chế các khối u, chống viêm. Theo Đông y, lươn có tác dụng bồi dưỡng khí huyết, tiêu trừ phong thấp, có thể chữa được bệnh suy dinh dưỡng, kiết lị, đau nhức xương sống, trĩ nội, phong thấp, bệnh huyết trắng của phụ nữ.
Lươn thịt đang là loại thực phẩm được nhiều người dân lựa chọn, nguồn cung không đủ cầu nên giá bán khá cao, trung bình giá lươn thịt được thu mua tại hộ nuôi giá từ 200.000 - 250.000 đồng/kg. Theo thống kê của Trademap.org, các thị trường tiêu dùng nhiều thịt lươn hàng năm đều phải nhập khẩu số lượng lớn, điển hình như Hàn Quốc, nhập khẩu hơn 196 triệu USD, Hồng Kông (Trung Quốc) nhập khẩu hơn 170 triệu USD. Đáng chú ý, Việt Nam cũng nằm trong nhóm 10 nước có nhu cầu tiêu thụ và nhập khẩu lươn nhiều nhất thế giới. Năm 2018 Việt Nam đã nhập khẩu 9,8 triệu USD lươn thịt từ Trung Quốc, Indonesia và Ma Rốc. Như vậy, nhu cầu tiêu thụ lươn thịt ở thị trường trong nước cũng như xuất khẩu là rất lớn.
Tại TP.HCM, nguồn lươn thịt chủ yếu nhập từ các tỉnh như Đồng Nai, An Giang, Vĩnh Long, Cần Thơ, Tiền Giang, Tây Ninh (chiếm 97%, tương đương khoảng 5.566 tấn/năm), còn lại khoảng 3% có nguồn gốc nuôi tại thành phố (tương đương khoảng 194,5 tấn/năm). Trong khi đó, sản lượng tiêu thụ nguồn lươn thịt thương phẩm tại TP.HCM chiếm 40%, tương đương 2.304 tấn/năm. Điều này cho thấy, lươn thịt nuôi tại TP.HCM chỉ đáp ứng được 3% tổng nhu cầu của thị trường Thành phố, do vậy việc phát triển ngành nuôi lươn thịt tại Thành phố là rất triển vọng, nhất là trong bối cảnh bệnh dịch gây bất lợi cho ngành chăn nuôi heo như hiện nay.
Về tình hình sản xuất, với những ưu điểm như không cần nhiều vốn đầu tư, không cần diện tích đất rộng, tận dụng được công lao động nhàn rỗi trong gia đình và các chuồng trại cũ, dễ chăm sóc và theo dõi hàng ngày,… lươn được xem là đối tượng nuôi mang lại thu nhập cao cho các hộ nông dân. Nghề nuôi lươn có xu hướng ngày càng phát triển mạnh ở nhiều địa phương với nhiều mô hình, quy trình nuôi lươn thương phẩm tương đối hoàn thiện.
Những năm qua, lươn chủ yếu được nuôi trong bể lót bạt, tập trung ở các huyện Thoại Sơn, Châu Thành, Tân Châu, Châu Phú tỉnh An Giang. Gần đây đã thử nghiệm thành công mô hình nuôi lươn đồng với mật độ cao trong bể, bể xi măng với dạt tre (có thể sử dụng cây tràm), với năng suất cao 60 – 70kg/m2 mỗi vụ. Tại TP.HCM, theo kết quả điều tra khảo sát của Trung tâm Tư vấn và Hỗ trợ nông nghiệp năm 2019, Thành phố có gần 30 hộ nuôi lươn với 778 bể nuôi, diện tích mỗi bể nuôi từ 4 đến 8m2, cao 0,8 - 1m, đa phần đều chuyển đổi từ chuồng nuôi heo, nuôi gà. Phần lớn diện tích nuôi tập trung tại huyện Củ Chi (xã Tân Phú Trung, An Nhơn Tây và Tân Thông Hội) khoảng 8.772m2 tương đương 94%, phần còn lại tập trung tại các huyện Hóc Môn, Bình Chánh và Quận 12.
Thành phố đã xác định đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất để tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, phục vụ phát triển đô thị theo hướng hiện đại, sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, giá trị gia tăng, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh cao và thân thiện với môi trường. Theo “Chương trình phát triển giống cây, con và nông nghiệp công nghệ cao giai đoạn 2020 - 2030” thì lươn là một trong những đối tượng thủy sản nước ngọt chủ yếu của Thành phố.
Kết quả khảo sát của Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Nông nghiệp Công nghệ cao với các hộ nuôi lươn thương phẩm tại vùng Củ Chi (TP.HCM), Cần Thơ, An Giang ghi nhận có 4 mô hình nuôi chủ yếu là nuôi lươn không bùn kết hợp với hệ thống tuần hoàn 2 giai đoạn, nuôi lươn không bùn với mật độ cao, nuôi lươn không bùn và nuôi lươn có bùn. Nguồn giống chủ yếu từ tự nhiên và sản xuất bán nhân tạo; kích cỡ thả giống từ 1000 - 500 con/kg; mật độ nuôi phụ thuộc vào từng mô hình nuôi và mật độ cao nhất từ 400 - 500 con/m2 tại mô hình nuôi lươn không bùn kết hợp với hệ thống tuần hoàn 2 giai đoạn; thời gian thả giống từ tháng 8 đến tháng 10; thời gian nuôi lươn thương phẩm từ 10 - 12 tháng; tỉ lệ sống dao động từ 70 - 80%. Theo điều tra khảo sát, các hộ nuôi chọn mô hình nuôi lươn với các lý do chính là chi phí đầu tư mô hình thấp, đem lại hiệu quả kinh tế, tỷ lệ sống và thành công cao; hiệu quả kinh tế của mô hình nuôi lươn không bùn với mật độ cao thu được năng suất 53,35 kg/m2/vụ và tỉ suất lợi nhuận được ghi nhận là cao nhất (1,06).
Các mô hình nuôi lương thương phẩm hiện nay: (A) Mô hình nuôi lươn trong hệ thống tuần hoàn; (B) Mô hình nuôi lươn có bùn; (C) Mô hình nuôi lươn không bùn trong bể xi măng lót bạc; (D) Mô hình nuôi lươn không bùn trong bể xi măng.
Bên cạnh những thuận lợi, các mô hình nuôi lươn thương phẩm hiện nay gặp không ít khó khăn như kích cỡ thả giống, lươn phân đàn, thành phần thức ăn và bố trí bể nuôi lươn thương phẩm ảnh hưởng đến tỉ lệ sống trong quá trình nuôi, chất lượng lươn thịt cũng như năng suất thu hoạch còn nhiều biến động, không ổn định giữa các vụ nuôi. Ngoài ra, các hộ nuôi chủ yếu tích lũy kinh nghiệm qua nhiều năm; việc nghiên cứu áp dụng các biện pháp kỹ thuật hiện đại, ứng dụng công nghệ nhằm tự động hóa kiểm soát và phòng trừ dịch bệnh trong quá trình nuôi lươn thương phẩm chưa được đẩy mạnh. Nguồn giống tuy chất lượng đã được cải thiện nhưng số lượng còn hạn chế. Tại Củ Chi phải nhập khẩu lươn giống với số lượng lớn bắt ngoài tự nhiên từ Camphuchia không đảm bảo về chất lượng. Tại Cần Thơ và An Giang, nhiều hộ nuôi đã chủ động kết hợp vừa sản xuất lươn giống vừa lấy con giống để nuôi lươn thương phẩm, tỉ lệ thành công khá cao nhưng nguồn giống bán nhân tạo cũng không đủ cung cấp với lượng lớn nhu cầu của các hộ dân muốn tham gia mô hình nuôi lươn thương phẩm.
Do đó, áp dụng phương pháp nuôi mới (nuôi lươn thương phẩm không bùn với mật độ cao đạt tiêu chuẩn VietGap) sẽ mang lại những ưu điểm và hiệu quả cao, giúp khắc phục khó khăn hạn chế của các mô hình nuôi lươn thương phẩm hiện tại.
Quy trình và phương pháp thực hiện
Quy trình nuôi lươn thương phẩm không bùn với mật độ cao
1. Xây dựng mô hình nuôi
* Vị trí xây dựng mô hình:
Mô hình nuôi lươn thương phẩm không bùn với mật độ cao được xây dựng ở vị trí thuận tiện cơ sở hạ tầng, giao thông đi lại, nguồn điện,… Môi trường nước và đất không bị ô nhiễm bởi các chất thải từ công và nông nghiệp như hóa chất, dầu khí, kim loại nặng, thuốc trừ sâu,… Diện tích xây dựng tùy thuộc vào mục đích sử dụng.
Nguồn nước: phân tích các chỉ tiêu nước được so sánh với tiêu chuẩn chất lượng nước mặt - QCVN 08:2008/BTNMT và so sánh với chỉ tiêu môi trường nước thích hợp cho nuôi lươn thương phẩm. Từ đó đưa ra phương pháp xử lý nguồn nước nuôi cho phù hợp (nhiệt độ nước 28 – 300C; pH 7,5 - 8,5; DO trong nước từ 4,50 - 5,5mg/L; kim loại nặng < 0,01mg/l; NH4+ < 0,05mg/l; NO2 < 0,05mg/L).
* Vận hành mô hình:
Mô hình nuôi lươn thương phẩm không bùn với mật độ cao được vận hành theo quy trình sau:
2. Quy trình thực hiện
* Công việc 1: Thiết kế, xây dựng cơ sở hạ tầng
- Tổng diện tích 100m2.
- Nhà kho: chứa trang thiết bị, dụng cụ phục vụ sản xuất giống, diện tích 20m2.
- Nhà chế biến và bảo quản thức ăn cho lươn: diện tích 20m2.
- Khu xử lý và chứa nước cấp cho khu nuôi lươn thương phẩm: diện tích 20m2.
- Khu nuôi lươn thương phẩm: diện tích 40m2 (4 bể, 1 bể có diện tích 10m2).
- Hệ thống các công trình phục vụ cho nuôi lươn thịt phụ thuộc vào địa hình của khu đất dự kiến thực hiện mô hình. Về cơ bản cần bố trí sao cho:
+ Thuận lợi cho các hoạt động diễn ra hằng ngày (chuẩn bị thức ăn, cho ăn, thay nước, theo dõi, kiểm tra máy móc thiết bị) cũng như việc lắp đặt, vận hành và bảo dưỡng thiết bị.
+ Bể nuôi không nên để trống